HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM NGÀY HỢP TÁC XÃ VIỆT NAM 11/4

Tin tức- hoạt động
Thúc đẩy chuyển đổi sản xuất xanh cho phát triển bền vững
11/04/2025 02:24:26

Trong khuôn khổ Tháng hành động Hợp tác xã năm 2025, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia năm 2025 với chủ đề "Chuyển đổi sản xuất xanh cho phát triển bền vững".

-5962-1744346950.jpg

Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn.

Đúng 8h15 phút ngày 11/4, Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia năm 2025 chính thức khai mạc. Diễn đàn do Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng chủ trì; Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm đồng chủ trì.

-5664-1744336371.jpg

Toàn cảnh Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia 2025.

Tham dự Diễn đàn có đại diện các Bộ, ban ngành Trung ương, Liên minh HTX các tỉnh, thành phố, các liên hiệp HTX và các HTX tiêu biểu, điển hình trên cả nước.

Diễn đàn được tổ chức nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, tìm kiếm các giải pháp phát triển kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX) gắn với phát triển kinh tế xanh, phát triển bền vững. Đặc biệt, tại Diễn đàn, các đại biểu sẽ cùng nhau thảo luận về cơ sở xây dựng và phát triển bền vững chuỗi sản xuất xanh trong khu vực KTTT, HTX; giải quyết các vướng mắc của các HTX tại các địa phương nhằm tìm ra các phương thức hỗ trợ HTX phát triển hiệu quả mô hình sản xuất xanh vì sự phát triển bền vững.

“HTX được nhìn nhận đúng tầm… sẽ xây dựng nền một kinh tế công bằng, thịnh vượng”

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết, một trong những điểm nhấn nổi bật của Tháng hành động HTX 2025 là Diễn đàn HTX Quốc gia 2025 với chủ đề “Chuyển đổi sản xuất xanh cho phát triển bền vững”. Đây là sự kiện quy tụ các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia kinh tế, doanh nghiệp và đại diện khu vực KTTT nhằm thảo luận, kiến nghị các giải pháp phát triển HTX gắn với xu thế kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế tri thức.

-8307-1744337171.jpg

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân phát biểu khai mạc Diễn đàn.

“Diễn đàn không chỉ là nơi lắng nghe, tháo gỡ khó khăn, mà còn mở ra cơ hội hợp tác, liên kết, hình thành các dự án mới giữa HTX và doanh nghiệp”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh.

Hiện, cả nước có trên 33.500 HTX hoạt động đa lĩnh vực, đặc biệt trong nông nghiệp - chiếm hơn 64% tổng số HTX, với hơn 3,8 triệu nông dân tham gia. KTTT với nòng cốt là các HTX đang ngày càng khẳng định vai trò trong liên kết sản xuất, nâng cao năng suất lao động và xây dựng chuỗi giá trị hiệu quả. Một thực tiễn cho thấy, ở đâu có sản xuất, có nhu cầu phát triển kinh tế thì ở đó có tổ hợp tác, HTX. Nếu được phát triển hiệu quả, các tổ hợp tác, HTX không chỉ nâng cao thu nhập cho người dân mà còn thúc đẩy tăng trưởng GDP, giúp Việt Nam hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP bền vững.

Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân, trong bối cảnh Việt Nam chịu áp lực từ biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên và yêu cầu hội nhập xanh, việc HTX chuyển đổi theo hướng sản xuất sạch, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và tham gia thị trường tín chỉ carbon trở thành yêu cầu tất yếu. Đặc biệt, Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp tại ĐBSCL đặt ra yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ cho hơn 20.000 HTX nông nghiệp tại khu vực này.

Để hiện thực hóa mục tiêu trên, Đảng và Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách trọng điểm như: Nghị quyết 106/NQ-CP về phát triển HTX nông nghiệp, Nghị định 113/2024/NĐ-CP hướng dẫn Luật HTX và Nghị quyết 20-NQ/TW của Trung ương về phát triển KTTT... Những chính sách này tạo nền tảng pháp lý và hỗ trợ thực tiễn để HTX phát triển bền vững, tiếp cận vốn, công nghệ, đào tạo, thị trường trong nước và quốc tế.

Diễn đàn HTX Quốc gia 2025 do đó không chỉ mang tính biểu tượng mà còn là cơ hội quan trọng để các bên liên quan cập nhật chính sách, kết nối với các tổ chức tài chính, quỹ đầu tư, tìm kiếm đối tác chiến lược và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn. Mục tiêu trọng tâm của Diễn đàn là nâng cao nhận thức và năng lực cho HTX trong việc áp dụng mô hình kinh tế xanh, giảm phát thải, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh. Điều này nhằm tiến tới năm 2045, Liên minh HTX Việt Nam kỳ vọng sẽ có ít nhất 3 HTX của Việt Nam lọt vào top 300 HTX lớn nhất toàn cầu. Để đạt mục tiêu đó, điều tiên quyết là phải phát triển các HTX mạnh về chất và lượng, gắn hoạt động với chuyển đổi số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Bởi HTX không chỉ là mô hình kinh tế, mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết, hợp tác, tự lực và sáng tạo.

“Khi HTX được nhìn nhận đúng tầm, hỗ trợ đúng cách, Việt Nam sẽ xây dựng được một nền kinh tế công bằng, thịnh vượng, toàn diện – nơi không ai bị bỏ lại phía sau”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh.

Hiện, ở trong và ngoài nước, nhu cầu thị trường đòi hỏi các sản phẩm chất lượng cao, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Đây cũng là đòi hỏi đối với chính các HTX. Đi liền với đó là yêu cầu phát triển xanh, phát thải thấp cũng là bài toán đặt ra với HTX. Do đó, yếu tố tiên quyết là HTX cần phải nâng cao cả chất và lượng để phát triển theo hướng xanh, bền vững. Tại Diễn đàn còn có sự tham gia của 100 HTX đạt Giải thưởng Ngôi sao HTX năm 2025. Đây là những mô hình tiêu biểu, đi đầu trong cả nước về sản xuất kinh doanh.

Dẫn chứng về sự thành công, chủ động của mô hình HTX, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cho rằng, HTX cá thát lát ở Hậu Giang, thông qua doanh nghiệp đã xuất khẩu cá thát lát qua Mỹ thành công. HTX này cũng phấn đấu 2 năm tới sẽ tự xuất khẩu mà không phụ thuộc vào doanh nghiệp. Điều này cho thấy, HTX biết tự phấn đấu, sáng tạo để cống hiến, đóng góp vào phát triển nền kinh tế xanh, bền vững.

Do đó, trước yêu cầu của thị trường, Diễn đàn được triển khai để cụ thể hóa những chính sách của Nhà nước về phát triển xanh, là nơi tạo điều kiện để HTX tiếp cận, kết nối với các tổ chức đầu tư, từ đó có thêm định hướng để phát triển bền vững, thích ứng với nhu cầu mới.

Chuyển đổi xanh là yêu cầu bức thiết trong bối cảnh hiện nay

Ông Bùi Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và KTTT (Bộ Tài chính) cho biết, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, chuyển đổi xanh là những yêu cầu bức thiết trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế và xã hội đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường và sự phát triển bền vững. 

Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ về các mục tiêu tăng trưởng xanh, đặc biệt là mục tiêu Net-zero vào năm 2050, khẳng định sự tiên phong của quốc gia cũng như tranh thủ một cách hiệu quả các nguồn lực quốc tế trong bối cảnh chuyển đổi xanh. 

Hiện thực hóa các cam kết trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh 2021 – 2030.

Đối với khu vực KTTT, HTX, quá trình này không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, mà còn giúp phát triển bền vững, gia tăng giá trị sản phẩm và cải thiện đời sống thành viên, người lao động. 

-7817-1744339612.jpg

Ông Bùi Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và KTTT (Bộ Tài chính) 

Nghị quyết số 20 Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trong giai đoạn mới đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Phát triển KTTT cả về số lượng và chất lượng, trong đó chú trọng chất lượng, bảo đảm sự hài hòa trong tất cả các ngành, lĩnh vực, địa bàn; có chính sách ưu tiên cho các tổ chức KTTT trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn hoạt động sản xuất kinh doanh với chuỗi giá trị sản phẩm, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; ưu tiên phát triển các tổ chức KTTT gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức…”.

Khu vực KTTT nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Nhận thức về phát triển KTTT trong cả hệ thống chính trị và tầng lớp nhân dân được nâng lên. Các HTX đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi sang mô hình kiểu mới theo quy định của pháp luật. Số lượng HTX, liên hiệp HTX thành lập mới tăng đáng kể, phát triển đa dạng hơn về ngành nghề, quy mô và trình độ, hỗ trợ tốt hơn cho các thành viên, tạo việc làm và nâng cao thu nhập thường xuyên cho người lao động. Các HTX đã đầu tư máy móc, chuyển đổi công nghệ sản xuất sạch và phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường, giúp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và giảm ô nhiễm. Từ đó, từng bước hình thành các HTX xanh phát triển bền vững. 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, khu vực KTTT còn tồn tại, hạn chế. Đó là khu vực KTTT, HTX phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, tốc độ tăng trưởng, tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTT vào GDP còn thấp và có xu hướng giảm.

Phần lớn HTX, tổ hợp tác (THT) có quy mô nhỏ nhỏ lẻ, vốn ít, doanh thu thấp, phạm vi hoạt động hẹp. Vì vậy, các HTX khó có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, chuyển đổi xanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, lợi nhuận và thu nhập của lao động khu vực KTTT, HTX tuy có chuyển biến tích cực nhưng còn chậm, có nguy cơ tụt hậu xa, giảm khả năng cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác. Do lợi nhuận, thu nhập thấp nên một bộ phận còn có tâm lý đánh đổi môi trường lấy kinh tế theo tư duy “tăng trưởng trước, làm sạch sau”.

Các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các HTX và giữa HTX với các tổ chức kinh tế khác, các cơ sở nghiên cứu, chuyển giao công nghệ chưa phổ biến. Trình độ năng lực của các HTX được nâng lên nhưng còn thấp.

Khả năng tiếp cận chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với khu vực KTTT, HTX còn hạn chế; việc huy động nguồn lực của HTX còn chưa kịp thời, chưa đáp ứng được cả về nhu cầu số lượng kinh phí và nội dung chính sách; chưa có gói tín dụng ưu đãi riêng cho KTTT, HTX.

Để chuyển đổi xanh thành công, cần có một khung chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho HTX tiếp cận công nghệ, tài chính, đào tạo và mở rộng thị trường. 

Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến khu vực KTTT, như Quốc hội đã thông qua Luật HTX năm 2023. Đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn theo yêu cầu của Luật HTX năm 2023 đã được ban hành đúng quy định, góp phần đưa các chính sách hỗ trợ của Luật đi vào cuộc sống, thúc đẩy các tổ chức KTTT phát triển.

Trong đó, Luật HTX năm 2023 đã thể chế hóa đầy đủ 08 nhóm chính sách tạo động lực thúc đẩy các tổ chức KTTT phát triển. Các chính sách này đã xác định rõ nguyên tắc ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, về thuế, về tiếp cận vốn, bảo hiểm, khoa học công nghệ… ưu tiên đối với các tổ chức KTTT gắn với kinh tế xanh, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Điển hình là quy định miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập của THT, HTX, liên hiệp HTX khi tham gia liên kết với cá nhân, tổ chức khác hình thành chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành, gắn với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức vì mục tiêu phát triển bền vững.

Hỗ trợ tổ chức KTTT đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; xây dựng mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính…

Quy định hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, trang thiết bị cho THT, HTX, liên hiệp HTX nhằm phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Ngoài các chính sách chung đã được hưởng như HTX, liên hiệp HTX trong các lĩnh vực khác thì được hưởng thêm chính sách hỗ trợ đặc thù riêng. Theo đó, THT, HTX, liên hiệp HTX được thụ hưởng các chính sách hỗ trợ đối với lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có chính sách hỗ trợ vốn, giống, khoa học và công nghệ khi THT, HTX, liên hiệp HTX chuyển đổi sang sản xuất bền vững, nông nghiệp hữu cơ, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Để thúc đẩy chuyển đổi xanh trong khu vực KTTT, đối với các bộ, ngành cần tích cực triển khai Luật HTX năm 2023 và các văn bản hướng dẫn thi hành; chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh hoặc bãi bỏ các cơ chế, chính sách thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý chưa phù hợp với tình hình thực tế, có mâu thuẫn với Luật HTX năm 2023 và các văn bản hướng dẫn.

Bộ Tài chính theo dõi, tháo gỡ khó khăn trong việc lập và phân bổ dự toán thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, HTX theo quy định tại Luật HTX năm 2023 cân đối bố trí vốn để thực hiện; nghiên cứu, sửa đổi chính sách thuế, phí và lệ phí cho các HTX.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện các chính sách hỗ trợ HTX nông nghiệp phù hợp với quy định của Luật HTX năm 2023, phát triển HTX nông nghiệp trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; nghiên cứu, hướng dẫn hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền quy định cụ thể về điều kiện mặt bằng đất đai (quy định riêng) để tham gia dự án khi HTX được hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng như nhà kho, sân phơi, kho lạnh,... giúp các HTX tháo gỡ khó khăn, vướng mắc khi thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn, hỗ trợ các HTX, nhất là các HTX ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp được tiếp cận, vay vốn tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng; xây dựng gói tín dụng ưu đãi cho HTX.

Liên minh HTX Việt Nam phát huy vai trò đại diện nòng cốt, hỗ trợ các tổ chức KTTT; tích cực tuyên truyền về vị trí, vai trò của khu vực trọng yếu này; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của khu vực KTTT về vai trò, ý nghĩa của tăng trưởng xanh, nhiệm vụ chuyển đổi xanh; nâng cao năng lực nhận diện nhãn năng lượng, nhãn sinh thái, nhãn xanh đối với hàng hóa, sản phẩm; tăng cường phổ biến thông tin sản phẩm, dịch vụ phát thải thấp, thân thiện môi trường…

Đối với các địa phương, tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KTTT, HTX. Phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo quốc gia về KTTT, các bộ ngành có liên quan trong quá trình triển khai các nhiệm vụ, chương trình, đề án phát triển KTTT. Đồng thời, tổng hợp, kịp thời báo cáo các vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai Luật HTX, các văn bản hướng dẫn Luật và các nhiệm vụ phát triển KTTT về Bộ Tài chính để kịp thời giải quyết.

Cân đối bố trí kinh phí năm 2025 và hàng năm để triển khai các chính sách hỗ trợ, phát triển KTTT, HTX từ nguồn ngân sách địa phương quản lý, kinh phí lồng ghép từ các chương trình mục tiêu quốc gia và các nguồn hợp pháp khác.

Đối với các tổ chức KTTT, HTX, chủ động nghiên cứu Luật HTX năm 2023 và các văn bản hướng dẫn để thực hiện đúng quy định; đề xuất nhu cầu hỗ trợ (đặc biệt chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, trang thiết bị từ nguồn vốn đầu tư công…

Chủ động vượt qua những rào cản và vướng mắc mang tính cố hữu để vươn lên; chuyển biến mạnh mẽ về cả tư duy, nhận thức và hành động; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động theo nguyên tắc chủ động, sáng tạo, không trông chờ ỷ lại hỗ trợ từ Nhà nước; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ hiện đại; phát triển các tổ chức KTTT gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ; tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị...

Kỳ vọng chính sách hỗ trợ KTTT tại Luật HTX năm 2023 và các văn bản hướng dẫn đã được quy định, hoàn thiện sẽ tạo lập cơ sở pháp lý để phát triển KTTT gắn với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, nông nghiệp hữu cơ, thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển đổi số vì mục tiêu phát triển bền vững, phù hợp với bối cảnh Việt Nam đang có nhiều nỗ lực chuyển đổi xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn như một định hướng ưu tiên và giải pháp quan trọng để phát triển nhanh, bền vững đất nước theo mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra.

Kinh nghiệm quốc tế về phát triển HTX bền vững

Theo bà Ingrid Christensen – Giám đốc Văn phòng Tổ chức lao động quốc tế ILO tại Việt Nam: Hệ sinh thái HTX Việt Nam luôn đóng vai trò là trụ cột quan trọng trong nền kinh tế. Chính phủ Việt Nam đã thể hiện cam kết phát triển bền vững nền kinh tế xanh. Từ góc nhìn của ILO, HTX là động lực quan trọng trong quá trình sản xuất và tạo việc làm cho người lao động.

HTX có đóng góp đáng kể cho kinh tế địa phương và quốc gia, tạo ra con đường phát triển độc đáo giúp người nông dân phát triển vững chắc. Các HTX ở Việt Nam có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế xanh, sự chuyển đổi từ thị trường carbon thấp và phát triển xanh.

Hiện nay nền kinh tế xanh không chỉ giải quyết vấn đề môi trường mà thúc đẩy công bằng xã hội. Trong đó, HTX là công cụ đảm bảo chuyển đổi công bằng xanh, tạo việc làm xanh cho nông dân địa phương và không ai bị bỏ lại phía sau. 

-1478-1744340259.jpg

Bà Ingrid Christensen – Giám đốc Văn phòng Tổ chức lao động quốc tế ILO tại Việt Nam

“ILO tại Việt Nam ủng hộ chuyển đổi xanh tại Việt Nam và cung cấp sự hỗ trợ cho người lao động khi chuyển đổi sang sản xuất xanh. Đặc biệt, Diễn đàn HTX Quốc gia 2025 là minh chứng cho sự quyết tâm chuyển đổi sản xuất xanh trong khu vực HTX”, bà Ingrid Christensen nhấn mạnh.

Các HTX có thể đóng góp vào sự phát triển vững, tạo ra sự tác động tích cực và thu nhập tốt hơn cho các thành viên, cộng đồng. Các HTX ngày càng đi đầu về sự thích ứng bảo vệ môi trường, những kinh nghiệm từ chuyển đổi sản xuất xanh sẽ mang lại bài học vô giá khi Việt Nam củng cố, phát triển khu vực HTX.

Trên toàn cầu, các HTX cũng đi đầu về bảo vệ môi trường, sản xuất năng lượng sạch với giá cả phải chăng. Các HTX còn tạo ra việc làm có giá trị tại địa phương. Điển hình tại Đan Mạch và Thuỵ Điển có các trang trại điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới do các HTX làm chủ. Tại Đức có các HTX vận hành tua bin gió, đáp ứng nhu cầu xã hội sang chuyển đổi năng lượng tái tạo.

“Các HTX về năng lượng chuyển mình vượt bậc và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế xanh. Cải thiện chuỗi giá trị và cung cấp chi phí hợp lý cho nhà sản xuất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội”, bà Ingrid Christensen cho hay.

Theo bà Ingrid Christensen, thời gian tới cần đẩy mạnh phát triển khu vực HTX, trong đó đối với chính sách bảo hiểm từ  khi Luật Bảo hiểm xã hội được sửa đổi đã có tác động tích cực đến các HTX, đó là các HTX được đóng bảo hiểm cho người lao động. Tuy nhiên, tương lai cần phải có những sự bảo vệ tốt hơn nữa, chẳng hạn khi xảy ra thiên tai, HTX sẽ được bảo vệ tốt hơn nữa về tài sản, con người. Và bảo vệ phúc lợi xã hội cho các thành viên HTX. Vì vậy, Liên minh HTX Việt Nam cần có động thái tích cực hơn nữa.

HTX cần nắm bắt thị trường, đáp ứng các tiêu chuẩn để xuất khẩu bền vững

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển Nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, nông nghiệp xanh là nông nghiệp hướng đến bảo vệ môi trường, bảo đảm sức khỏe cho người sản xuất và người tiêu dùng. Ngoài ra, nông nghiệp xanh là hướng đến đảm bảo sử dụng tài nguyên hiệu quả, bền vững.

-3402-1744340570.jpg

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển Nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, xu hướng tiêu dùng xanh - sạch - bền vững đang trở thành yêu cầu phổ biến tại các thị trường xuất khẩu nông sản lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Theo thống kê của WTO, hơn 80% các rào cản kỹ thuật đối với nông sản nhập khẩu hiện nay liên quan đến yếu tố môi trường, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Liên minh châu Âu (EU) ban hành Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) và Quy định chống mất rừng (EUDR), Hoa Kỳ với Đạo luật Cạnh tranh sạch, cùng nhiều quốc gia đang tăng cường các rào cản kỹ thuật liên quan đến phát thải, truy xuất nguồn gốc và chứng nhận sản phẩm.

Bắt đầu từ tháng 1/2026, sản phẩm nông sản như cà phê, ca cao, cao su, gỗ, thịt bò,.... nếu không đảm bảo không gây mất rừng hoặc không có nguồn gốc hợp pháp sẽ bị cấm nhập khẩu vào EU. Với CBAM, từ 2026, doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào EU, Hoa Kỳ có thể phải trả 55 USD/tấn CO₂, tạo áp lực lớn đối với chuỗi cung ứng, đặc biệt là các HTX nông nghiệp (HTXNN) tổ chức sản xuất đầu vào. 

Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho khu vực KTTT, mà nòng cốt là các HTXNN, cần nhanh chóng chuyển mình để đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường nông sản xanh.

Tính đến hết tháng 12/2024, cả nước có 23.556 HTX nông nghiệp, chiếm 67,8% tổng số HTX cả nước. Các HTX ngày càng đóng vai trò trung tâm trong xây dựng vùng nguyên liệu, tổ chức sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn. 2.500 HTXNN đang ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, 4.339 HTX bao tiêu nông sản, 2.169 HTX có sản phẩm OCOP, và khoảng 1.500 HTX tham gia du lịch nông nghiệp. Tuy nhiên, số lượng HTX đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu xanh, hữu cơ, truy xuất minh bạch vẫn còn hạn chế. Nhiều HTX vẫn thiếu năng lực quản trị, năng lực thị trường, đầu tư hạ tầng và liên kết chuỗi giá trị.

Để HTX phát triển xanh hiệu quả, theo ông Lê Đức Thịnh, điều đầu tiên, HTX cần chủ động chuyển đổi phương thức sản xuất theo hướng xanh, tuần hoàn và bền vững. Bởi, HTXNN cần đóng vai trò trung tâm trong tổ chức sản xuất thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Để làm được điều này, HTX cần tổ chức vùng nguyên liệu tập trung, truy xuất nguồn gốc và đạt chứng nhận chất lượng. Việc tổ chức sản xuất quy mô lớn, có liên kết và kiểm soát đồng bộ là điều kiện tiên quyết để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Các vùng nguyên liệu do HTX quản lý cần thực hiện ghi chép điện tử, gắn mã QR, chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn như VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ,… Đây cũng là yêu cầu được đặt ra trong Luật HTX năm 2023, với định hướng HTX là đơn vị tổ chức sản xuất theo chuỗi, nâng cao giá trị và năng lực cạnh tranh cho sản phẩm. 

Thứ hai, HTX cần nắm bắt và tuân thủ các yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Muốn vậy, HTX cần được đào tạo và cập nhật liên tục về: cấp mã số vùng trồng, mã số vùng nuôi, mã số cơ sở đóng gói; các chứng nhận như VietGAP, GlobalGAP, Organic, Rainforest Alliance; các quy định như CBAM, EUDR, tiêu chuẩn carbon, kiểm soát mất rừng, truy xuất nguồn gốc blockchain,....

Thứ ba, HTX cần ứng dụng công nghệ số và tăng cường liên kết chuỗi giá trị. Bởi hiện nay, chuyển đổi số là yếu tố sống còn. HTX cần sử dụng phần mềm kế toán, phần mềm ghi chép nhật ký điện tử, hệ thống truy xuất nguồn gốc QR/Blockchain, áp dụng công nghệ GIS, drone, AI, bán hàng thương mại điện tử,... Hiện nay, khoảng 70% HTXNN trong vùng nguyên liệu thí điểm đã áp dụng ít nhất một hình thức công nghệ số.

Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, các HTX cần ứng dụng công nghệ trong quản lý sản xuất và thương mại. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đến năm 2023, cả nước có khoảng 300 HTX triển khai ứng dụng chuyển đổi số, nhưng phần lớn còn ở mức thử nghiệm. 

Bên cạnh đó, HTXNN nên làm đầu mối liên kết với doanh nghiệp xuất khẩu, đơn vị logistics, ngân hàng và tổ chức chứng nhận. Hiện nay, cả nước có 2.412 HTX đã tham gia chuỗi liên kết theo Nghị định 98/2018/NĐ-CP, trong đó nhiều HTX làm chủ trì liên kết, trực tiếp phân phối sản phẩm, điển hình như HTX Thắng Lợi (Đồng Tháp) hay HTX Hưng Lợi (Sóc Trăng) trong chuỗi lúa phát thải thấp. Ngoài ra, việc liên kết với doanh nghiệp, ngân hàng, trung tâm logistic và đơn vị xuất khẩu giúp HTXNN tham gia vào chuỗi giá trị, giảm thiểu rủi ro thị trường, nâng cao thu nhập cho thành viên.

Thứ tư là HTX cần tăng cường năng lực hội nhập và tiếp cận thị trường quốc tế. Để làm được điều này, HTX cần đầu tư vào công tác xây dựng thương hiệu, bao bì, tiêu chuẩn và năng lực giao thương quốc tế. Việc tham gia các hội chợ như Vietfood & Beverage, Hội chợ nông sản quốc tế Trung Quốc – ASEAN... là cơ hội để HTX tiếp cận thị trường.

Ngoài ra, cần nâng cao năng lực cán bộ HTXNN về pháp lý quốc tế, đàm phán thương mại, đăng ký mã số vùng trồng, mã cơ sở đóng gói theo yêu cầu của các thị trường như Trung Quốc, EU, Mỹ…

Thứ năm là HTX cần tận dụng chính sách và hỗ trợ từ Nhà nước và đối tác phát triển. Để tiếp cận được các chính sách, HTX cần chủ động tiếp cận các chương trình, đề án trọng điểm Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã và đang triển khai chỉ đạo như: Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao phát thải thấp (Quyết định 1490/QĐ-TTg); Đề án vùng nguyên liệu đạt chuẩn (Quyết định 1088/QĐ-BNN-KTHT); Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 1804/QĐ-TTg); Chương trình chuyển đổi số trong nông nghiệp đến năm 2030 (Quyết định số 653/QĐ-BNN-CĐS); Các chính sách hỗ trợ tín dụng, đất đai, khoa học công nghệ trong Luật HTX 2023 và Luật Đất đai (sửa đổi 2024).

Bên cạnh đó, các HTX nông nghiệp có thể hợp tác với các tổ chức quốc tế như FAO, IFAD, GIZ, JICA, ACIAR,… để tiếp cận nguồn lực tài chính và kỹ thuật phục vụ chuyển đổi xanh.

Theo ông Lê Đức Thịnh, trong bối cảnh toàn cầu chuyển dịch mạnh mẽ sang nền kinh tế xanh – tuần hoàn - phát thải thấp, HTXNN không còn là mô hình hỗ trợ thuần túy, mà là thiết chế kinh tế - xã hội đóng vai trò trung tâm tổ chức lại sản xuất nông nghiệp. Muốn đưa sản phẩm nông nghiệp Việt ra thế giới, HTX phải "xanh hóa từ bên trong", đổi mới tư duy và hành động thực chất, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, từ nhỏ lẻ sang quy mô, từ tự phát sang tổ chức chuỗi.

Có 5 lý do để tăng trưởng xanh và chuyển đổi xanh

Theo chuyên gia kinh tế TS. Cấn Văn Lực, hiện nay, phát triển kinh tế xanh là mục tiêu hàng đầu. Trong đó có sử dụng tài nguyên (đất, nước, nguyên liệu…) hiệu quả và bền vững; tiếp cận dịch vụ và tài nguyên; đầu tư xanh, thương mại xanh, việc làm xanh và đổi mới xanh. Cùng với đó là nâng cao chất lượng môi trường, giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái.

Tại Việt Nam, khung khổ pháp lý cơ bản đã hoàn thiện thông qua Luật Bảo vệ môi trường 2020 được ban hành quy định rất rõ về kinh tế tuần hoàn: định hướng áp dụng từ thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và tuần hoàn vật liệu, phân loại rác tại nguồn; trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất – EPR; tín dụng xanh, trái phiếu xanh.

-9891-1744341545.jpg

Chuyên gia kinh tế TS. Cấn Văn Lực.

Bên cạnh đó là Quyết định 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 phê duyệt Quy hoạch điện VIII, chuẩn bị sửa đổi Quy hoạch điện VIII này. Luật Điện lực 2024; Nghị định 58/2025/NĐ-CP hướng dẫn Luật Điện lực 2024 về năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Nghị quyết 57/NQ-TW (22/12/2024) đột phá về KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Hiện nay, Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2025, trong đó đặt mục tiêu đến năm 2030 với nhiều mục tiêu quan trọng.

Có 5  lý do cần tăng trưởng xanh, đó là: Có mối quan hệ tương quan chặt chẽ giữa môi trường và sức khỏe (nhất là bối cảnh dịch bệnh gia tăng….); Theo WB, Việt Nam thuộc 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn bởi biến đổi khí hậu và thay đổi hệ sinh thái sinh học (tổn thất có thể lên đến 11% GDP vào năm 2100); Hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn nhiều: cứ 1 triệu USD đầu tư vào năng lượng tái tạo giúp tăng thêm ít nhất 5 việc làm (so với đầu tư năng lượng hóa thạch); Tăng năng lực cạnh tranh, hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài; Tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế và doanh nghiệp. 

Đồng thời, 5 khu vực ưu tiên, gồm: Nông nghiệp xanh, sạch và ứng dụng công nghệ cao; Phát triển đô thị và phương thức vận tải bền vững (đô thị chiếm 78% tiêu thụ năng lượng và 60% khí phát thải nhà kính toàn cầu, theo UB Habitat); Chuyển đổi năng lượng sạch; Áp dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn (hiện tại, 62% khí thải nhà kính (GHG) là từ sản xuất, 38% từ phân phối và tiêu dùng; nhưng cấu trúc này đang thay đổi); Gìn giữ đại dương sạch và hiệu quả (Việt Nam có 28 tỉnh, TP có kinh tế biển...).

Về tín dụng xanh, hiện nay, Chính phủ và NHNN ban hành nhiều quy định, trong đó có quy định về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng…

Đến hết 2024, dư nợ tín dụng đối với các dự án xanh là 679 nghìn tỷ đồng (tăng 9,4% so với cuối 2023, chiếm 4,3% tổng dư nợ), tăng gần 8 lần mức 70,8 nghìn tỷ đồng năm 2015 (theo NHNN).

Dư nợ tín dụng có đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đến hết 31/12/2024 là 3,4 triệu tỷ đồng, chiếm 22% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Đáng chú ý, trái phiếu xanh hiện nay đang được nhà đầu tư rất ưa chuộng. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu xanh rất hạn chế, lượng phát hành rất khiêm tốn. Giai đoạn 2016-2020 có tổng cộng 4 đợt phát hành trái phiếu xanh, giá trị 284 triệu USD. Giai đoạn 2021-2024, Việt Nam đã phát hành khoảng 30,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu xanh và bền vững.

Trong khi cổ phiếu xanh chưa có gì, doanh nghiệp mới chỉ tham gia thị trường theo dạng thành viên, chưa có doanh nghiệp Việt Nam nào phát hành cổ phiếu xanh.

Vậy, cần cơ hội gì để chuyển đổi xanh? Hành lang pháp lý đang dần hoàn thiện, có nhiều định hướng chiến lược cho tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn. Nhiều nhà đầu tư rất quan tâm đến tăng trưởng xanh.

Trong bối cảnh đó, hiện nay, phần lớn các HTX có quy mô nhỏ, thiếu vốn và cơ sở vật chất, CNTT; chưa quan tâm ứng dụng CNTT, chuyển đổi số (chỉ có 12% tổng số).

Các HTX khó khăn khi tiếp cận vốn từ các tổ chức tài chính do thiếu tài sản thế chấp, hoạt động sản xuất - kinh doanh chưa hiệu quả (34% trong số gần 22.000 HTX nông nghiệp chưa hiệu quả), thiếu minh bạch… Trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt còn hạn chế.

Việc triển khai Luật HTX 2023 còn chậm, chưa nhất quán và chưa quyết liệt; chưa hình thành mô hình HTX kiểu mới; liên kết với khối doanh nghiệp, giữa các HTX với nhau khá lỏng lẻo, dẫn đến khó tham gia chuỗi giá trị; Tích tụ đất đai còn nhiều khó khăn (việc triển khai Luật Đất đai 2024… còn chậm); Các HTX phát triển chậm, chưa xứng tầm, chưa phát huy tốt lợi thế, tiềm năng; vai trò của Liên minh HTX, hiệp hội còn mờ nhạt.

Mặc dù nhóm KTTT cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiên, hiện nay, khu vực KTTT mới đóng góp gần 3% GDP. Tại sao KTTT vẫn “chưa lớn”?

Để các HTX phát triển, tăng quy mô đóng góp vào nền kinh tế cần gắn kết các chiến lược, kế hoạch phát triển xanh với quy hoạch, chiến lược phát triển KT-XH của đất nước, địa phương và bản thân HTX. Có thể đặt mục tiêu KTTT- HTX đóng góp 4-5% GDP đến năm 2030. Sớm ban hành Danh mục “phân loại xanh”, trong đó nên có xác định lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên, giao cho tổ chức độc lập xác nhận xanh. 

Có cơ chế, tiêu chí, phương thức đánh giá tác động môi trường (tiêu chí “dự án, công trình, nhà máy xanh, doanh nghiệp xanh….”); Ban hành chính sách thay đổi hành vi (nhất là đầu tư, tiêu dùng, sinh hoạt..); Hỗ trợ tài chính (thuế, phí, lãi suất), thành lập Quỹ hổ trợ chuyển đổi xanh; quan tâm phát triển mô hình “tín dụng hợp tác”

Khuyến khích thu hút nguồn lực tư nhân tham gia đầu tư “xanh”. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tham gia quá trình xanh hóa.

Đối với Liên minh HTX Việt Nam, cần nâng cao nhận thức về chuyển đổi xanh, coi đó là khoản đầu tư hơn là chi phí (nhất là con người, công nghệ, thương hiệu…); Thực hiện tốt Luật HTX 2023, Luật Đất đai 2024…; sớm triển khai mô hình HTX kiểu mới; Quan tâm nâng cao chất lượng cán bộ; tăng khả năng thu hút vốn đầu tư phát triển; cải thiện liên kết giữa HTX và các thành phần kinh tế khác... 

Nâng tầm HTX trong bối cảnh biến động của các quy định xuất khẩu

TS Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong thời gian gần đây thay đổi liên tục nên doanh nghiệp, HTX xuất khẩu cần cập nhật để hạn chế những khó khăn, rủi ro trong sản xuất và xuất khẩu.

Hiện nay, Việt Nam đã có 19 FTA song phương và đa phương. FTA là một hiệp ước giữa hai hay nhiều quốc gia, trong đó các quốc gia thỏa thuận về các nghĩa vụ nhất định tác động đến thương mại hàng hóa và dịch vụ.

Trong đó, các cam kết trong các FTA chú trọng: cam kết về thương mại hàng hoá (thuế quan, xuất xứ hàng hoá, thủ tục hải quan và thuận lợi thương mại, các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), phòng vệ thương mại,…); cam kết về dịch vụ; cam kết về đầu tư;…

-1391-1744343129.jpg

TS Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam.

Các ưu đãi có được từ các cam kết này chính là lý do mà FTA thường được ví với chiếc “chìa khoá” để doanh nghiệp xuất nhập khẩu dễ dàng tiếp cận thị trường, mở rộng giao thương.

Cập nhật thông báo thay đổi các biện pháp SPS của thành viên WTO cho thấy, quy định mức dư lượng tối đa (MRL) hóa chất trong nông nghiệp nếu như năm 2024 là 244 thông báo thì quý I/2025 là 33 thông báo. Thông báo về sức khỏe động vật năm 2024 là 164 thông báo thì quý I/2025 là 10 thông báo.

Thông báo về sức khỏe thực vật năm 2024 là 155 thông báo thì quý I/2025 là 6 thông báo. Về thức ăn chăn nuôi và phụ gia chăn nuôi năm 2024 là 87 thông báo thì quý I/2025 là 35 thông báo. Phụ gia thực phẩm năm 2024 là 64 thông báo thì quý I/2025 là 15 thông báo.

Còn tổng hợp số lượng thông báo dự thảo và quy định có hiệu lực về biện pháp SPS của thành viên WTO năm 2024 và quý I/2025 cho thấy Liên minh Châu Âu năm 2024 có đến 145 thông báo và đến quý I/2025 là 43 thông báo.

Brazil năm 2024 là 131 thông báo thì quý I/2025 là 17 thông báo, Nhật Bản năm 2024 là 83 thông báo thì đến quý I/2025 có 6 thông báo. Hoa Kỳ năm 2024 có 83 thông báo và đến quý I/2025 là 9 thông báo. Canada năm 2024 là 59 thông báo, đến quý I/2025 là 21 thông báo. Các  quốc gia ASEAN năm 2024 là 36 thông báo và quý I/2025 là 16 thông báo…

Đặc biệt, các quốc gia/khu vực là đối tác thương mại xuất khẩu nông, lâm, thủy sản và thực phẩm chính của Việt Nam như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và các quốc gia thuộc khối ASEAN... có đến 645 thông báo, chiếm 58% (năm 2024).

Điều này cho thấy, EU là thị trường có nhiều thông báo nhất, chứng tỏ thị trường này có rất nhiều rào cản kỹ thuật chặt chẽ, buộc nông sản Việt Nam phải tuân thủ và đơn vị sản xuất phải hiểu đúng các quy định để xuất khẩu phù hợp. Bởi mỗi thị trường sẽ có các quy định khác nhau.

Gần đây, Trung Quốc đã sửa đổi Quy định 248, SPS đã gửi đến các tỉnh thành và đến nay, Việt Nam đã có 4.000 mã cơ sở doanh nghiệp được Hải quan Trung Quốc được phê duyệt, trong đó có nhiều HTX đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc.

EU sửa đổi Phụ lục III của Quy định (EC) số 853/2004 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu liên quan đến các quy tắc vệ sinh đối với thực phẩm có nguồn gốc động vật: (i) cơ sở giết mổ động vật móng guốc, (ii) cá ngừ đông lạnh và (iii) các sản phẩm chế biến sâu: gelatin, collagen... (Thông báo số G/SPS/N/EU/844). Hay EU thay đổi các quy định về xuất khẩu cá ngừ, nên các hiệp hội, doanh nghiệp, HTX cần nghiên cứu để có giải pháp thích ứng.

TS Ngô Xuân Nam cho biết, hiện thách thức tuân thủ các Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật (SPS) khi xuất khẩu nông sản, thực phẩm đặt ra chặt chẽ và bắt buộc các đơn vị xuất khẩu, trong đó có HTX phải tuân thủ. Trong khi mỗi quốc gia/khu vực có quy định riêng về biện pháp về an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, các thành viên WTO thường xuyên hay đổi các biện pháp về an toàn thực phẩm và dịch bệnh động - thực vật (biện pháp SPS).

Theo TS Ngô Xuân Nam, xu thế các quốc gia/vùng lãnh thổ gia tăng các biện pháp an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động thực vật (SPS) đối với nông sản thực phẩm và thủy sản nhập khẩu. Và xu thế sử dụng các sản phẩm an toàn, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, sản phẩm khai thác hợp lý, sản phẩm hữu cơ, sản phẩm giảm phát thải, sản phẩm dựa trên giá trị, sản phẩm xanh... ngày càng gia tăng.

Do đó, để đáp ứng đầy đủ quy định về SPS của thị trường nhập khẩu, các HTX cần phải nắm rõ và đáp ứng đầy đủ các quy định tồn dư thuốc BVTV, kháng sinh, chất cấm và chất gây ô nhiễm trong thực phẩm; Quy định về kiểm dịch thực vật và động vật; Nhãn mác hàng hóa và vật liệu đóng gói; Yêu cầu mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói.

Các HTX cũng cần nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc đảm bảo các yêu cầu về vùng trồng, yêu cầu về cơ sở đóng gói-chế biến. Ngoài ra, HTX cũng cần liên kết chặt chẽ với các cơ quan quản lý để cập nhật kịp thời các quy định, những thay đổi về quy định xuất khẩu của các thị trường.

Đối với nhóm sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật, cần tăng cường đào tạo, hướng dẫn nâng cao năng lực cho nông dân, HTX.

Còn HTX cần đẩy mạnh canh tác theo quy trình giảm thuốc BVTV hóa học, ưu tiên sử dụng thuốc BVTV sinh học; Tuân thủ hướng dẫn sử dụng thuốc BVTV cũng như liều lượng, thời gian cách ly và kiểm soát mức tồn dư, các hoạt chất cấm theo quy định của thị trường nhập khẩu.

Để xây dựng và giám sát chặt chẽ vùng trồng, cơ sở đóng gói, cần hỗ trợ nông dân, HTX đăng ký, duy trì mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói đúng chuẩn xuất khẩu.

Đồng thời, hỗ trợ HTX ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc điện tử (QR code) để tăng cường tính minh bạch và đáp ứng yêu cầu của thị trường; Hỗ trợ HTX áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, Globla GAP... trong trồng trọt.

Bên cạnh đó, cần khuyến khích liên kết giữa doanh nghiệp –HTX – nông dân, hỗ trợ canh tác theo đơn hàng và tiêu chuẩn thị trường. Trong đó, doanh nghiệp đầu tư kỹ thuật – nông dân, thành viên HTX đảm bảo chất lượng, từ đó lợi ích phân bổ hài hòa.

PGS.TS. Mai Quang Vinh, Liên hiệp HTX kinh tế số Việt Nam 

Việt Nam đang hội nhập sâu với thị trường quốc tế, đứng trước nhiều cơ hội về đầu tư, mở rộng thị trường, khách hàng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp gặp nhiều thách thức, khó khăn, rào cản: Thách thức về vốn, tiềm lực kinh tế, cạnh tranh, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, chất lượng, giá thành sản phẩm và thách thức về biến đổi khí hậu.

Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích ứng dụng KHCN tăng cường tiềm lực cạnh tranh, ứng dụng chuyển đối số, chuyển đổi xanh. 

Đối với nông nghiệp Việt Nam hiện nay đang đặt ra bài toán làm sao quản lý chất lượng nông sản với nền canh tác nhỏ lẻ rất khó quản lý xuất xứ hàng hóa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, có tình trạng nông sản trà trộn xuất xứ, gian lận thương mại, gian lận tem nhãn, truy xuất không minh bạch, giá bán thấp, gây thiếu lòng tin người tiêu dùng.

-4573-1744343421.jpg

Nguyên liệu xuất thô, 50% không có thương hiệu, ít có thương hiệu mạnh, 80% nông sản xuất khẩu phải dùng thương hiệu nước ngoài.

Cùng với đó là những bất cập quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, bất cập tuân thủ các quy định quốc tế theo yêu cầu hội nhập về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa có trách nhiệm ESG (Môi trường – Xã hội -  Quản trị doanh nghiệp).

Từ sau năm 2028, các nước trên thế giới yêu cầu đối với sản phẩm nông, lâm, thủy sản khi tham gia thị trường thế giới rất cao như yêu cầu về chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế: GlobalG.A.P, HACCP, ISO 22000; An toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn FDA (US), EFSA (EU), FSANZ (Úc), MRLs, (USDA Organic, EU Organic). Trách nhiệm ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị doanh nghiệp): Sản xuất bền vững, Kinh doanh Fair Trade, SA8000. Minh bạch phát thải & Tín chỉ Carbon:  Carbon Footprint, Carbon Credit, Rainforest Alliance, CarbonNeutral. Truy xuất nguồn gốc: QR code, Blockchain, COO - Certificate of Origin) FSC, MSC, ASC.

Do đó, các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam cần phải có các giải pháp chuyển đổi xanh, chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp. Đó là lựa chọn tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy trình sản xuất phù hợp. Sử dụng phần mềm để số hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tự động hoá và thông minh hóa các hoạt động trong chuỗi giá trị thực phẩm nông sản. Kết nối với sàn thương mại điện tử, các nền tảng IoT để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Phối hợp liên kết doanh nghiệp, liên kết vùng, liên kết ngành, quốc gia. Từng bước đầu tư các thiết bị thông minh, tự động…

Tại Liên hiệp HTX Kinh tế số Việt Nam hiện nay đang chuyển giao ứng dụng giải pháp số trong quản trị sản phẩm và quản trị doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ công thông tin quản lý, giám sát, truy xuất minh bạch và kết nối thị trường nông sản Việt Nam… Trong đó, phần mềm ứng dụng chuyển đổi xanh, chuyển đổi số nông nghiệp là phần mềm nhật ký sản xuất eGap & eGap.vn đang được nhiều HTX ứng dụng. Chẳng hạn, HTX Bảo tồn và Dược liệu Sóc Sơn là một điển hình cơ sở sản xuất và chế biến dược liệu cao cấp có chứng nhận JAS và TCVN, Tiêu chuẩn VietFarm giảm phát thải và ESG, quản lý giám sát truy xuất bằng  eGap & eGap.vn. Triển vọng cuối năm 2025 sẽ được cấp Tem nhãn xanh VietFarm giảm phát thải và ESG cho sản phẩm xuất khẩu EU và Nhật.

Có thể thấy, chuyển đổi số nông nghiệp là một trọng tâm của cuộc cách mạng nông nghiệp 4.0.

Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ chuyển đổi số: Đặt yêu cầu, nội dung, chế tài áp dụng, đánh giá, tuyển chọn các nền tảng mạng xã hội dùng chung, giảm chi phí, tăng hiệu quả ứng dụng. Tránh tình trạng mỗi địa phương có nền tảng riêng chồng chéo.

Có chính sách khuyến nông số: hỗ trợ trang thiết bị, chuyển giao công nghệ, tập huấn chuyển đổi số tới người nông dân, HTX, doanh nghiệp.

Ban vận động Hiệp hội Chuyển đổi Xanh Việt Nam trong Chiến lược phát triển mong muốn xây dựng Hiệp hội là ngôi nhà chung kinh tế xanh, kinh tế số cho cộng đồng nông nghiệp, mong muốn được Liên minh HTX Việt Nam quan tâm hợp tác, hỗ trợ, chỉ đạo thúc đẩy chuyển đối xanh và chuyển đổi số.

Kết nối thị trường và nâng cao năng lực tài chính cho HTX, doanh nghiệp

Ông Tạ Quý Tôn, Giám đốc Công ty Ánh Dương Kinh Bắc, cho biết công ty là một doanh nghiệp chuyên sản xuất các sản phẩm từ xơ mướp. Khi thành lập, công ty xác định sản phẩm hữu cơ sẽ giúp ổn định đầu ra. Mục tiêu thị trường công ty hướng đến là xuất khẩu là chính. 

Khi thực hiện bán hàng trên trang mạng, đã có khách hàng gọi điện thì công ty nhận thấy thị trường có nhiều sản phẩm tương tự. Đòi hỏi doanh nghiệp phải chứng minh sản phẩm không hóa chất, không phải hàng giả.

-3493-1744343864.jpg

Ông Tạ Quý Tôn, Giám đốc Công ty Ánh Dương Kinh Bắc.

Trước thực tế này, công ty đã chứng minh bằng cách đốt cháy sản phẩm bằng xơ mướp. Nếu sản phẩm cháy thành tro là xơ mướp thật, còn cháy khét, chậm thì là sản phẩm giả, sản phẩm có chứa nhựa… Và điều này đã giúp HTX khẳng định được lòng tin với khách hàng. Do đó, khách hàng đã bay sang Việt Nam và khi làm việc, đối tác chỉ quan tâm đến dung lượng hàng hóa của công ty là bao nhiêu, có thể cung ứng được lâu dài hay không.

Vấn đề đặt ra là thị trường nước ngoài kiểm tra hàm lượng hóa chất rất chặt chẽ, yêu cầu về hàm lượng hóa chất rất thấp. Trong khi ở Việt Nam hiện vẫn chưa  có các tiêu chuẩn cụ thể về kiểm tra hóa chất, nên nhiều khi nông dân, HTX nghĩ một số quy trình sản xuất rất đơn giản. Nhưng theo ông Tạ Quý Tôn, những điều mà người dân nghĩ đó là đơn giản lại ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp xuất khẩu. 

Ngoài ra, về thị trường, khi làm việc với người dân, họ luôn hỏi rằng: “Nếu tham gia trồng 1 sào mướp thì thu được bao nhiều tiền?”. Vì vậy, để giải quyết được điều này, doanh nghiệp phải chỉ rõ các quy định, nếu nông dân đáp ứng được thì số tiền thu về sẽ được thông báo cụ thể để họ yên tâm trong quá trình liên kết.

Tuy nhiên, theo giám đốc doanh nghiệp này, làm nông nghiệp thì nguồn vốn của doanh nghiệp hạn hẹp. Trong đợt bão Yagi vừa qua, có gần 10ha mướp của HTX bị ảnh hưởng gây thịệt hại rất lớn, khoảng 10 tỷ đồng nhưng các cơ quan hỗ trợ công ty chỉ khoảng 10 triệu, chưa kể thời gian kiểm tra nhiều lần vì phải làm đúng theo quy trình.

Do đó, điều doanh nghiệp cần làm là tạo niềm tin cho người dân, HTX về cơ chế, chính sách, đầu ra rõ ràng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng mong tiếp cận được nhiều nguồn lực để tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp – HTX - nông dân.

Cam kết tiếp tục là một hạt nhân xanh, lan tỏa mô hình tuần hoàn

Bà Đỗ Thị Thuý Hà – Giám đốc HTX Đầu tư phát triển Sông Giá (Hải Phòng) chia sẻ, trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh tăng trưởng xanh và nông nghiệp sinh thái, mô hình HTX xanh, hữu cơ, tuần hoàn đang trở thành xu thế tất yếu, người tiêu dùng ưu tiên sản phẩm sạch, minh bạch và bền vững.

Chính sách của Nhà nước đang hỗ trợ HTX tiếp cận vốn, công nghệ, thị trường. Công nghệ sinh học và chuyển đổi số mở ra hướng nâng giá trị sản lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Tuy nhiên, hành trình này không dễ dàng, nhiều HTX đang đối mặt với tư duy sản xuất cũ, manh mún, nghi ngại với mô hình xanh. 

-9953-1744345358.jpg

Bà Đỗ Thị Thuý Hà – Giám đốc HTX Đầu tư phát triển Sông Giá (Hải Phòng) 

Thiếu vốn đầu tư ban đầu để chuyển đổi hạ tầng, thiết bị, chế phẩm sinh học. Khó khăn trong tổ chức liên kết chuỗi và tìm đầu ra bền vững. Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. 

Tại HTX Đầu tư phát triển Sông Giá, từ năm 2021, HTX chọn mô hình nông nghiệp tuần hoàn xanh với 3 trụ cột: Tái sinh đất, tái chế phụ phẩm và tuần hoàn tài nguyên. HTX tự nghiên cứu và sản xuất chế phẩm vi sinh BioSofix để ủ rác hữu cơ, xử lý bèo lục bình làm thức ăn cho trùn quế và tạo phân compost từng bước xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp không rác thải. 

Song song, HTX đưa công nghệ số vào quản lý và truy xuất nguồn gốc, liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ, mở rộng ứng dụng trùn quế vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, từ đó từng bước hình thành hệ sinh thái nông nghiệp bền vững. 

Từ hành trình chuyển đổi, HTX đề xuất cần có gói tín dụng xanh dài hạn ưu đãi: Hỗ trợ HTX đầu tư vào hạ tầng sản xuất tuần hoàn, hệ thống thống vi sinh, thiết bị tiết kiệm nước. 

Chuyển giao công nghệ sinh học và đào tạo công nghệ thông tin ứng dụng và hiểu được giá trị mô hình. Phát triển kênh thương mại xanh riêng cho HTX. Đưa giáo dục nông nghiệp sinh thái vào nhà trường: Hình thành lớp nông dân mới – hiểu biết, trách nhiệm với đất và môi trường.

Chuyển đổi tư duy là bước khởi đầu cho hành trình bền vững chuyển đổi xanh, việc HTX chuyển đổi sang nông nghiệp xanh là một hành trình dài, nhưng nếu người nông dân hiểu rằng mỗi hành động của mình là đang gieo một hạt giống tương lai – cho đất, cho nước, cho cộng đồng – thì hành trình ấy sẽ không còn là thách thức, mà trở thành sứ mệnh. HTX Sông Giá cam kết tiếp tục là một hạt nhân xanh, lan tỏa mô hình tuần hoàn, ứng dụng tài nguyên bản địa, hợp tác cùng các HTX bạn – để cùng nhau xây dựng một nền nông nghiệp tử tế và bền vững cho Việt Nam. 

Tiếp cận nguồn hỗ trợ sản xuất xanh: Bài học từ mô hình thành công

Ông Nguyễn Quốc Huy, Chủ tịch HĐQT HTX Nấm Tam Đảo, cho biết nghề trồng dâu nuôi tằm hiện cho thu nhập cao. Với mỗi 1 ha đất trồng dâu nuôi tằm cho thu nhập bình quân 240-300 triệu đồng/năm, cao gấp 2 - 3 lần so với các cây trồng khác. Lợi thế là dâu tằm có thể trồng được ở nhiều loại đất, nhiều loại địa hình như sườn đồi, ven bãi, đất cát pha. Và đặc biệt là mức đầu tư rất thấp, lại cho thu nhập thường xuyên chỉ với chu kỳ 15 ngày mỗi lứa, rất phù hợp cho người dân vùng núi.

Tuy nhiên, những khó khăn đang gặp phải là nguồn cung trứng tằm chất lượng chưa ổn định do phụ thuộc trên 90% vào nhập trứng từ Trung Quốc về Việt Nam, lại qua đường tiểu ngạch. 

Trong khi người dân còn e ngại về thị trường đầu ra mặc dù được HTX tuyên truyền, ký kết bao tiêu. Từ đó, việc vận động người dân tham gia HTX còn gặp nhiều khó khăn.

-4043-1744345766.jpg

Ông Nguyễn Quốc Huy, Chủ tịch HĐQT HTX Nấm Tam Đảo.

Một số thành viên HTX đã được sang Ấn Độ làm việc với Viện nghiên cứu dâu tằm của họ thì năng suất và chất lượng kén tằm của họ tốt hơn. “Tôi rất mong Đoàn chủ tọa tại Diễn đàn có giải pháp hỗ trợ về chuyển giao công nghệ giống với họ, song song với đó là cho cơ chế hợp tác nhập khẩu trứng tằm của Ấn Độ và Trung Quốc chính ngạch để chủ động chăn nuôi trong nước, trong đó có cả cơ chế miễn giảm thuế nhập trứng tằm”, ông Nguyễn Quốc Huy bày tỏ.

Bên cạnh đó, ông Huy cũng mong các cơ quan quản lý có thêm giải pháp xúc tiến hợp tác, kết nối thị trường tiêu thụ với các nước có thị trường tiềm năng, đồng thời tăng cường truyền thông để người dân yên tâm sản xuất và gắn bó với nghề.

Với các tiềm năng lợi thế của ngành dâu tằm tơ ở Việt Nam, đặc biệt là nghề có thể giúp người dân vùng sâu vùng xa, người nghèo khó có thể thoát nghèo và phát triển, ông Huy mong rằng Nhà nước và địa phương sẽ có thêm nhiều chính sách ưu đãi cho người dân và tổ chức, HTX. Điều này sẽ giúp nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa trở thành nghề mũi nhọn của Việt Nam.

Hiện, Liên minh HTX Việt Nam đã có cơ chế cho vay lưu động đối với HTX, giúp HTX có động lực phát triển. Vì HTX rất khó chứng minh hóa đơn chứng từ, nhất là HTX tự xử lý chất thải thành phân bón hữu cơ. Do đó, cho HTX vay vốn lưu động là giải pháp phù hợp với mô hình HTX. 

“HTX rất mong có những nguồn vốn lưu động bên ngoài, giống như thế này để tạo điều kiện cho HTX giải quyết khó khăn về tài chính. Bởi hiện nay, việc HTX tiếp cận với ngân hàng rất khó, quy trình phức tạp”, ông Nguyễn Quốc Huy chia sẻ.

Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần xem xét các dự án cụ thể của HTX, bởi hầu hết các dự án nông nghiệp có đầu tư theo chuỗi, có HTX- doanh nghiệp tham gia và được xác nhận rõ ràng thì ngân hàng cần xem đây là một trong những điều kiện để thỏa mãn điều kiện vay vốn. Trong khi HTX là đơn vị bỏ ra rất nhiều nguồn lực, chi phí để đầu tư từ đất đai, giống, phân bón…, còn cây dâu phải từ 2-3 năm mới cho thu hoạch.

Ông Huy cũng mong muốn tháo gỡ vấn đề đất đai cho HTX. Ở Vĩnh Phúc muốn quy hoạch một vùng thì thường HTX phải làm tiếp cận những đất xấu để nâng cao giá trị của vùng đất đó, nhưng có vấn đề là HTX phải tham gia đấu giá. Trong khi HTX không thể cạnh tranh được về vấn đề này với các doanh nghiệp, đơn vị khác mạnh hơn, nên không tạo thuận lợi cho HTX trong tiếp cận đất sản xuất, xây dựng trụ sở. Đó cũng là nút thắt vì sao khiến HTX không thể lớn nổi.

“HTX mãi là HTX, không thể là doanh nghiệp vì thực chất nhiều doanh nghiệp đang nằm trong HTX. Do đó, cần chung tay gỡ các nút thắt cho HTX phát triển. Những HTX nào phát triển thực chất, hiệu quả thì cần quan tâm đầu tư, hỗ trợ phù hợp hơn”, Giám đốc HTX Nấm Tam Đảo đề xuất.

Làm thương hiệu hiệu quả để các đối tác liên kết tiêu thụ biết và tìm đến mình 

Ông Trương Thanh Viện, Chủ tịch HĐQT HTX điều hữu cơ Truecoop, Ninh Thuận thông tin: HTX khởi nghiệp từ năm 1017, hiện có 5.400 ha điều hữu cơ có chứng nhận thương mại quốc tế. HTX sản xuất dựa trên 5 nhà: nhà nông, khoa học, nhà nước, liên kết với DN, nhà truyền thông.

Khi đưa sản phẩm xanh ra thị trường quốc tế, một trong những thách thức lớn nhất mà HTX gặp phải là việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường xuất khẩu. Các thị trường quốc tế, đặc biệt là EU, Mỹ, Nhật Bản, luôn yêu cầu các sản phẩm thực phẩm phải đáp ứng những tiêu chuẩn rất cao về an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm và quy trình sản xuất.

-1550-1744345914.jpg

Ông Trương Thanh Viện, Chủ tịch HĐQT HTX điều hữu cơ Truecoop, Ninh Thuận.

Với sản phẩm xanh, điều này không đơn giản chỉ là đạt được một chứng nhận hữu cơ, mà còn là một chuỗi các yêu cầu khác như kiểm soát chất lượng trong từng giai đoạn sản xuất, đảm bảo nguồn gốc nguyên liệu, và tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường. Các sản phẩm phải được sản xuất và chế biến một cách sạch sẽ, không gây ô nhiễm và không chứa bất kỳ hóa chất độc hại nào.

Để vượt qua những yêu cầu này, HTX Truecoop đã không ngừng cải tiến và hoàn thiện quy trình sản xuất của mình. HTX đã đầu tư vào công nghệ hiện đại để kiểm soát chất lượng sản phẩm từ khâu trồng trọt đến khi sản phẩm được đóng gói và vận chuyển ra thị trường. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế và các chứng nhận hữu cơ quốc tế không phải là một điều dễ dàng, nhưng đó là cam kết của HTX đối với người tiêu dùng và đối tác quốc tế.

HTX cũng hợp tác chặt chẽ với các tổ chức đánh giá và kiểm định chất lượng uy tín để đảm bảo rằng sản phẩm luôn đạt chuẩn và đủ điều kiện để xuất khẩu sang các thị trường khó tính nhất. Hành trình này đòi hỏi sự kiên trì, đầu tư dài hạn và một chiến lược rõ ràng để phát triển sản phẩm xanh bền vững.

Một yếu tố quan trọng trong việc đưa sản phẩm xanh của HTX ra thị trường quốc tế là xúc tiến thương mại. Việc tham gia vào các hội chợ quốc tế đã mang lại cho HTX cơ hội gặp gỡ các đối tác quốc tế, quảng bá sản phẩm, và tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Những hội chợ này không chỉ là nơi để giới thiệu sản phẩm mà còn là cơ hội để HTX tìm hiểu và nắm bắt được nhu cầu và xu hướng của thị trường quốc tế.

HTX đã tham gia vào nhiều hội chợ quốc tế về nông sản hữu cơ tại các thị trường như EU, Nhật Bản, Mỹ và các quốc gia trong khu vực ASEAN. Thông qua những sự kiện này, HTX Truecoop đã kết nối được với các đối tác, nhà phân phối và khách hàng quốc tế, mở rộng mạng lưới phân phối và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm.

Bên cạnh việc tham gia hội chợ, HTX cũng tận dụng nền tảng thương mại điện tử để giới thiệu sản phẩm và kết nối trực tiếp với khách hàng quốc tế. Thương mại điện tử đã trở thành một kênh phân phối quan trọng không chỉ trong nước mà còn cho xuất khẩu. Thương mại điện tử đã giúp HTX Truecoop tiếp cận được tất cả các khách hàng mà không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý.

Ngoài ra, việc sử dụng công nghệ số để phát triển các kênh bán hàng trực tuyến giúp HTX mở rộng sự hiện diện của mình trên các thị trường toàn cầu, giảm chi phí giao dịch và gia tăng hiệu quả phân phối. HTX tin rằng trong kỷ nguyên số, việc ứng dụng nền tảng số là chìa khóa để mở rộng thị trường và gia tăng xuất khẩu sản phẩm xanh.

Để HTX và các sản phẩm xanh có thể phát triển mạnh mẽ hơn, HTX rất mong muốn nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ các chính sách. Đặc biệt là trong các lĩnh vực như logistics, thuế phí, và xây dựng thương hiệu quốc gia cho sản phẩm xanh của HTX. Việc hỗ trợ về logistics sẽ giúp giảm chi phí vận chuyển và đảm bảo tính ổn định trong cung ứng sản phẩm. Chính sách thuế ưu đãi sẽ giúp các HTX giảm bớt gánh nặng tài chính và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc xuất khẩu. Đặc biệt, một chương trình thương hiệu quốc gia cho sản phẩm xanh của HTX sẽ giúp nâng cao giá trị của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế và tạo dựng sự tin tưởng mạnh mẽ hơn từ người tiêu dùng toàn cầu.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Liên minh HTX Lào Cai

-5119-1744346230.jpg

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Liên minh HTX Lào Cai.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Liên minh HTX Lào Cai, cho biết trong Đề án phát triển 1 triệu ha lúa phát thải thấp, có một doanh nghiệp Nhật Bản đã sản xuất phân than vi sinh và phân này dùng vào mục đích cải tạo đất chỉ mất 1 tháng, ngang với cải tạo đất bằng phân hữu cơ thông thường phải khoảng 3 năm.

Do đó, nếu kết nối được với doanh nghiệp này thì việc phát triển kinh tế tuần hoàn đối với HTX sẽ thuận lợi hơn, giúp tăng năng suất, chất lượng nông sản, bảo vệ môi trường. Hiện, lá quế và cành quế Lào Cai năm 2024 người dân thu được là 157.000 tấn. Sau đó, sản xuất ra khoảng 465 tấn tinh dầu, bán với giá 365 nghìn đồng/lít, cho thu nhập khá cao.

Nhưng bã tinh dầu khi bán đi, sau khi tính toán sẽ thu được khoảng gần 100 tỷ đồng. Còn sản xuất bã tinh dầu thành phân vi sinh thì giá trị cũng khoảng hơn 200 tỷ đồng. Như vậy, vừa nâng cao thu nhập cho nông dân, HTX, vừa giảm phát thải nhà kính vì quá trình sản xuất phân bón vi sinh sẽ hạn chế phát thải nhà kính.

Phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang là xu thế 

Phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng khẳng định, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang là xu thế chung của các quốc gia trong lựa chọn của mình. Việt Nam cũng đã chủ động, quyết tâm chuyển đổi xanh, đồng thời ban hành nhiều nghị quyết, chiến lược, kế hoạch hành động, cam kết quốc tế hướng tới phát triển bền vững quốc gia.

Liên minh HTX Việt Nam, các HTX, tổ hợp tác (THT), các thành viên được tham gia tích cực góp phần thực hiện xanh hoá các ngành kinh tế, thúc đẩy tiêu dùng bền vững.

Diễn đàn đã đưa ra một số quan điểm, giải pháp có giá trị đạt được sự đồng thuận cao. Thống nhất về nhận thức trong toàn xã hội, khẳng định phát triển KTTT là mục tiêu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự…. Vì mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước là xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng và văn minh.

-7424-1744350000.jpg

Gần đây, trong bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm về phát triển kinh tế tư nhân cũng khẳng định vai trò kinh tế tư nhân, cùng với kinh tế Nhà nước và KTTT là nòng cốt để xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực tự cường. 

Chuyển đổi sản xuất xanh là tập trung chuyển đổi mô hình theo hướng xanh hoá các ngành kinh tế, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, sử dụng tiết kiệm tài nguyên đất đai, năng lượng… dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và chuyển đổi số.

Chuyển đổi xanh, phát triển xanh không thể tách rời mô hình kinh tế tuần hoàn, cần sử dụng tốt khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo để minh bạch hoá chuỗi cung ứng xanh. Đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng xanh, đặc biệt  là năng lượng điện gió, điện mặt trời…. để sản xuất xanh.

Thúc đẩy chuyển đổi sản xuất xanh cần có môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và có tính dự báo cao, có sự tham gia của cơ quan nhà nước. Đặc biệt, khu vực kinh tế tư nhân, HTX còn nhỏ và yếu cần có sự hỗ trợ tham gia của Nhà nước  

Chuyển đổi sản xuất xanh với các HTX sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo, cần chú trọng phát triển các HTX nông nghiệp với tiêu chí bền vững, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao chất lượng giá trị gia tăng của sản phẩm, tối ưu hoá giá trị đất đai hơn cả gia tăng sản lượng.

Làm thế nào để nâng giá trị sản phẩm, ví dụ 1 ha ngô, lúa, sắn chỉ loanh quanh 100 triệu, nay cần nâng lên thành các sản phẩm có giá trị 500 triệu và nguồn lao động phải giảm đi, nhằm đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững nâng cao hiệu quả.

Khi tôi đang ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư có xây dựng một Trung tâm hỗ trợ nông nghiệp công nghệ cao tại tỉnh Hoà Bình theo hướng làm thế nào nâng cao giá trị sản phẩm chất lượng, mẫu mã và bán được sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời, chuyển đổi các giống cây trồng, vật nuôi mang giá trị cao. 

Hiện nay, dự án này vẫn được triển khai và được chuyển về Bộ Tài chính, vì vậy Liên minh HTX Việt Nam cần liên kết chặt chẽ với trung tâm này để được hỗ trợ nhằm nâng cao giá trị, năng suất, sức cạnh tranh cho các HTX.

“Những việc gì cần làm, chúng ta phải thực hiện ngay. Ví dụ như diễn đàn về nguồn vốn cho HTX chuyển đổi xanh và diễn đàn chuyển đổi số cho HTX có thể thực hiện ngay. Hiện, Bộ Tài chính đang triển khai những cơ chế về hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và chúng ta có thể kết hợp để triển khai cho khu vực KTTT, HTX, để các HTX có thể tiếp cận các giải pháp, các hỗ trợ, biết cách ứng dụng công nghệ… từ đó giảm bớt khó khăn trong thời gian đầu chuyển đổi số và làm cơ sở để chuyển đổi xanh”.

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng

Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh hướng tới tăng trưởng bền vững về kinh tế, công bằng xã hội… Khu vực KTTT phát triển năng động, hiệu quả, nâng cao chất lượng cuộc sống thành viên HTX.

Để đạt mục tiêu này, Phó Thủ tướng gợi mở một số giải pháp:

Đối với các bộ ngành và địa phương: tiếp tục hoàn thiện thể chế theo tinh thần kiến tạo, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho mô hình KTTT; Bộ ngành địa phương triển khai hiệu lực, hiệu quả Luật HTX năm 2023, tăng cường nguồn lực, nhân lực để HTX chuyển đổi mô hình tăng trưởng xanh.

Với Bộ Tài chính có 4 nhiệm vụ: Thứ nhất, nghiên cứu quy định riêng các địa phương dành quỹ đất nhất định ưu tiên cho các HTX nông nghiệp mượn, thuê, được hỗ trợ giảm giá trong thời gian đầu để các HTX có điều kiện phát triển.

Thứ hai, tăng cường thúc đẩy tài chính xanh, thu hút đầu tư quốc tế. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn hỗ trợ các HTX, nhất là HTX ứng dụng công nghệ cao được tiếp cận vay vốn tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Chính phủ đẩy mạnh ngoại giao về sáng kiến toàn cầu tăng trưởng bền vững, nhưng Việt Nam cũng cần xây dựng các gói tín dụng riêng về chuyển đổi xanh cho các HTX sản xuất xanh, chuyển đổi số.

Thứ ba, đổi mới sáng tạo, ứng dụng KHKT trong khu vực KTTT, các HTX nâng cao hiệu quả hoạt động. Đề nghị Bộ tài chính xây dựng đề án riêng cho HTX về chuyển đổi số hoặc gắn với chương trình chuyển đổi số với doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp nâng cao năng lực, chất lượng, sức cạnh tranh của HTX.

Thứ tư, nhanh chóng ban hành quy định, quy trình về tín chỉ các bon.

Đối với Liên minh HTX Việt Nam: Phát huy vai trò, đại diện nòng cốt hỗ trợ cho KTTT. Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về khu vực KTTT, đặc biệt năng cao năng lực, tăng cường phổ biến thông tin dịch vụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, 

Liên minh HTX Việt Nam là cầu nối liên kết HTX với HTX, HTX với DN và HTX với Chính phủ

Phối hợp với Bộ Công thương và Bộ Ngoại giao tổ chức xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các HTX tại các nước.

Đã đến lúc nghĩ đến việc mở rộng và vươn ra thị trường nước ngoài. Sắp tới, Liên minh HTX Việt Nam phải làm việc với Đại sứ quán ở các nước để mở rộng thị trường.

Đối với các HTX cần chủ động vượt qua rào cản, vướng mắc mang tính cố hữu để vươn lên, chuyển biến mạnh mẽ về tư duy, nhận thức. Tăng cường đầu tư vào chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, giảm phát thải.

Phát triển HTX gắn với chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu dùng. Xác định nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định sự thành công của chuyển đổi xanh, nâng cao chất lượng nhân lực. Hình thành đội ngũ quản lý am hiểu chuyển đổi xanh, quản lý rủi ro về môi trường.

Diễn đàn HTX Quốc gia 2025 đã định hướng được những giải pháp lớn cho chuyển đổi xanh cho khu vực KTTT, HTX, góp phần vào mục tiêu tăng trưởng trên 8% của cả nước trong năm nay, hướng tới tăng trưởng hai con số trong năm sau. 

Hiện nay, đóng góp của khu vực KTTT cho kinh tế đất nước đang còn khiêm tốn so với năng lực và có dấu hiệu chậm, tụt lại. Vì vậy, với những tinh thần tại Diễn đàn cùng nhau nỗ lực, cố gắng với sự hỗ trợ của Trung ương, Nhà nước và nỗ lực bản thân HTX và sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam, chắc chắn khu vực KTTT sẽ đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước trong thời gian tới. 

-6846-1744350893.jpg

Đồng lòng đưa KTTT, HTX phát triển 

Kết thúc Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân cho biết, Liên minh HTX Việt Nam xin tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng, các ý kiến đóng góp của đại diện các bộ ngành, các chuyên gia, doanh nghiệp và HTX.

Qua đây cho thấy, HTX còn phải làm nhiều việc, thực hiện nhiều vấn đề và có những vấn đề không thể trì hoãn được nữa.

Điều đầu tiên là HTX cần hoàn thiện mình để có thể “hấp thu” được các chính sách của Nhà nước và thích ứng được với những biến chuyển của thị trường. Liên minh HTX Việt Nam xác định “mình là người bạn của HTX” vì không chỉ chăm sóc HTX mà còn có trách nhiệm thu hút người dân vào HTX.

Hai năm gần đây, Liên minh HTX Việt Nam rất chú trọng vào tổ chức Tháng hành động HTX với mong muốn làm rõ nét vai trò của khu vực KTTT, HTX. HTX không chỉ làm để thu lợi nhuận mà còn thúc đẩy xã hội phát triển.

Do đó, Liên minh HTX Việt Nam sẽ phối hợp với Bộ NN&MT, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ công Thương và mong các bộ ngành hiểu rõ hơn, có cái nhìn khách quan hơn về mô hình HTX. Liên minh HTX Việt Nam cũng sẽ chủ động tham vấn cho các bộ ngành để hoàn thiện các chính sách cho khu vực KTTT, HTX.

Dẫn chứng về việc thu hút thành viên vào HTX, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết tại HTX Bình Liêu (Quảng Ninh), nhiều người dù được tuyên truyền nhưng vẫn chưa tham gia HTX. Do đó, muốn thu hút được họ vào HTX phải đi từ những điều tốt đẹp của mô hình KTTT. Có như vậy mới phát triển được những cánh chim đầu đàn, thúc đẩy mô hình KTTT, HTX phát triển.

Cùng với đó, Liên minh HTX Việt Nam mong muốn các địa phương hỗ trợ thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX. Hiện, nhiều địa phương có Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX nhưng nguồn vốn còn thấp, chỉ khoảng 20 tỷ đồng nên không thể hoạt động hiệu quả và không thể hỗ trợ được các HTX phát triển. Ngoài ra, cần vận động thêm các nguồn quỹ khác để hỗ trợ các HTX trong giải quyết nút thắt về tài chính.

Bên cạnh đó, cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực nhưng phải tránh việc đào tạo tràn lan, không bài bản. Mà việc đào tạo nguồn nhân lực cho HTX cần theo cung bậc, thực hiện rõ ràng với thời gian nhất định. Các bộ ngành cũng cần tạo điều kiện để hệ thống Liên minh HTX thực hiện thí điểm gói đào tạo cán bộ, thành viên HTX theo quy trình, từ đó có thể nhân rộng và nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực cho các HTX.

“Bằng hành động thiết thực, Liên minh sẽ triển khai ngay các vấn đề liên quan đến các bộ ngành để tạo động lực, cơ sở cho HTX phát triển, chuyển đổi xanh. Và so với năm trước, nhiều HTX đã tiếp cận được vốn từ ngân hàng. Do đó, các HTX tiêu biểu, phát triển mạnh cần hướng dẫn, hỗ trợ các HTX khác để đưa khu vực KTTT cùng phát triển vững mạnh”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh.

                                             Theo: Nhóm PV(VnBusiness)

Các tin mới hơn
Các tin cũ hơn
Khi hợp tác xã biết 'vay đúng, dùng khéo'(11/04/2025)
Liên minh Hợp tác xã chủ động tiếp cận khoa học công nghệ, ứng dụng AI trong quản lý điều hàn(11/04/2025)
Gỡ khó cho Quỹ tín dụng nhân dân phát huy hiệu quả (11/04/2025)
Nghị quyết số 57-NQ/TW - động lực then chốt cho sự phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia(10/04/2025)
Bộ trưởng Bộ Tài chính gửi thư chúc mừng Ngày Hợp tác xã Việt Nam(10/04/2025)
Video
na
na
na
na
na
na
na
na
na
Liên kết website